Phim hoạt hình anime InuYasha

Bài chi tiết: InuYasha Kanketsu-Hen

Giới thiệu chung

Bài chi tiết: Các tập phim Inu Yasha

Căn cứ vào 36 tập đầu tiên của manga [10], anime của InuYasha được sản xuất bởi Sunrise và công chiếu tại Nhật Bản tại Animax vào ngày 16 tháng 10 năm 2000 và có 167 tập phim cho đến khi kết thúc vào ngày 13 tháng 9 năm 2004, sau đó bắt đầu một lần nữa, trong năm 2009 và kết thúc vào năm 2010 với tổng số 193 tập phim [11][12]. Nó cũng được phát sóng trên Yomiuri TVNippon Television. Trong khu vực Đông ÁNam Á, nó đã được phát sóng bằng tiếng Anh vào mạng lưới Animax.

Anime phụ đề tiếng Anh đã được cấp phép phát hành tại Bắc Mỹ bởi Viz Media [13]. Bộ phim được phát sóng trên Adult Swim từ 31 tháng 8 năm 2002 tới ngày 27 tháng 10 năm 2006 [14]. Một năm sau nó được phát sóng tại Canada trên chương trình chặn YTV 's Bionix từ 5 tháng 9 năm 2003 tới ngày 1 tháng 12 năm 2006 [15].

Trong số 34 của Shonen Sunday đã được công bố tập phim anime cuối cùng tương ứng với tập 36 của manga đến sẽ được thực hiện bởi các diễn viên và đoàn làm phim gốc và sẽ phát sóng trên YTV Nhật Bản [16]. Tuần sau, Viz Media đã công bố đã cấp phép cho bản anime kế tiếp, có tên Inuyasha: The Final Act (犬夜叉完结编 Inuyasha Kanketsu-hen ?) [17]. Anime này được công chiếu vào ngày 3 tháng 10 năm 2009 tại Nhật Bản với các tập phim được phát sóng qua HuluShonen Sunday tại Hoa Kỳ [18]. Trong các khu vực khác của châu Á thì tập phim được phát sóng trong tuần trên Animax-Asia [19]. Anime này kết thúc vào ngày 29 tháng 3 năm 2010.

Anime Inu Yasha ở Nhật Bản

Logo của anime Inu Yasha.

Mặc dù manga Inu Yasha đã ra đời từ năm 1996 nhưng gần bốn năm sau anime Inu Yasha mới ra mắt độc giả. Nguyên nhân là nhà sản xuất anime của Rumiko Takahshi là Kitty Animation (từng tham gia thực hiện Mezon IkkokuMột nửa Ranma) gặp phải nhiều khó khăn về tài chính và buộc phải rút lui. Việc tìm một nhà sản xuất mới cho Inu Yasha đã phải tốn khá nhiều thời gian, nhưng cuối cùng một ứng cử viên sáng giá đã xuất hiện: Sunrise. Sunrise là công ty vừa mới thực hiện thành công bộ anime Thám tử lừng danh Connan, vậy không có lý do gì họ không thực hiện Inu Yasha tiếp theo. Thế là, ngày 16 tháng 10 năm 2003, tập phim anime đầu tiên của Inu Yasha đã được trình chiếu trên Nippon TV. Theo lời của Suwa Michihiko, nhà sản xuất của anime Inu Yasha, những năm đầu tiên của thiên niên kỷ thứ ba là thời điểm thích hợp để thực hiện bộ phim này, vì đó là thời điểm thích hợp để nhìn lại lịch sử Nhật Bản trong khi vẫn hướng tới tương lai[20].

Anime Inu Yasha nhanh chóng thu được thành công vang dội không chỉ trên nước Nhật mà trên phạm vi thế giới. Nó đã nhanh chóng đạt được số lượng hàng nghìn lượt người xem trong mỗi tuần, một kỷ lục mới của các anime thực hiện trên tác phẩm của "công chúa manga" Rumiko. Theo đánh giá, bộ anime Inu Yasha có cốt truyện bám khá sát manga, mặc dù các nhà sản xuất cũng phóng tay "chế tạo" nhiều nhân vật và tình tiết mới như mọi khi. Ví dụ, trong bộ anime, các cảnh sexy, bạo lực,... ít hơn rất nhiều so với nguyên tác manga. Tác giả Takahashi Rumiko đã đóng một vai trò rất tích cực trong việc sản xuất anime, cụ thể là trong việc chọn các diễn viên lồng tiếng. Chính bà là người đã chọn Yamaguchi Kappei, người từng lồng tiếng cho nhân vật Ranma trong Một nửa Ranma đảm trách nhân vật Khuyển Dạ Xoa[20].

Trong thời gian này Sunrise cũng đã sản xuất 4 bộ movie Inu Yasha:

  • Inu Yasha the Movie 1: Affection Touching Across Time (映画犬夜叉 時代を越える想い, Eiga InuYasha: Jidai o Koeru Omoi) trình chiếu vào ngày 15 tháng 12 năm 2001.
  • Inu Yasha the Movie 2: Castle Beyond the Looking Glass (映画犬夜叉 鏡の中の夢幻城, Eiga InuYasha: Kagami no Naka no Mugenjō) trình chiếu vào ngày 21 tháng 12 năm 2002.
  • Inu Yasha the Movie 3: Swords of Honorable Ruler (映画犬夜叉 天下覇道の剣, Eiga InuYasha: Tenka Hadō no Ken) trình chiếu vào ngày 20 tháng 12 năm 2003
  • Inu Yasha the Movie 4: Fire on the Mystic Island (映画犬夜叉 紅蓮の蓬莱島, Eiga InuYasha: Guren no Hōraijima) trình chiếu vào ngày 23 tháng 12 năm 2004

Tuy nhiên, những tin đồn về việc tạm ngưng sản xuất anime Inu Yasha (dù manga Inu Yasha chưa kết thúc) đã dấy lên ngay từ tháng 3 năm 2004. Ê-kíp làm phim đã từng nói bóng gió là họ muốn kết thúc Inu Yasha để thực hiện anime mới Yakitate! Japan. Nhà sản xuất Suwa Michihiko cũng nói viết trên blog của mình rằng các diễn viên lồng tiếng cho Inu Yasha đang "dồn hết cảm xúc" cho tập cuối phim. Tin này đã được xác nhận, và ngày 13 tháng 9 năm 2004 là ngày phát sóng tập cuối (167) của Inu Yasha. Người ta nói rằng khi các diễn viên lồng tiếng ghi âm lời cuối cùng gửi đến độc giả, nhiều người đã khóc[20]. Thật ra việc tạm ngưng anime Inu Yasha cũng có lý của nó: anime đã bắt đầu dài và lượt người xem phim cũng bắt đầu có dấu hiệu sụt giảm. Bộ truyện tranh vẫn được tiếp tục được tác giả Takahashi Rumiko sáng tác và xuất bản tại Nhật Bản, nay đã kết thúc với 558 chương.

Tuy nhiên, lúc đó Sunrise đã đánh tiếng là sẽ làm thêm một bộ OVA về Inu Yasha. Và thế rồi, ngày 30 tháng 7 năm 2008 một số đoạn phim của bộ OVA (Original Video Animation) kéo dài 30 phút tên là Kuroi Tessaiga (tên tiếng Anh: Black Tessaiga, nghĩa là Thiết Toái nha đen) đã được trình chiếu tại It's an Rumic world bởi Ginza Matsuya department store tại khu mua sắm Tokyo's Ginza. Các diễn viên lồng tiếng đều là các diễn viên từng làm trong bộ anime Inu Yasha trước kia và họ đã bắt đầu ghi âm các đoạn lồng tiếng vào ngày 8 tháng 7 năm 2008. Hiện có rất ít thông tin được biết về Kuroi Tessaiga, nhưng như cái tên đã nói, nội dung của OVA này nói về tuyệt chiêu Minh đạo Tàn nguyệt phá và sự hình thành của thanh Thiết Toái nha đen. Cụ thể là cậu chuyện trong Kuroi Tessaiga sẽ bắt đầu ngay sau trận đánh giữa Sát Sinh HoànTử Thần Quỷ và kết thúc khi Sát Sinh Hoàn chuyển giao Minh Đạo Tàn nguyệt phá cho Khuyển Dạ Xoa, tương ứng với các chương 499-504 trong manga[21][22].

Hiện nay, ngoài Kuroi Tessaiga Inu Yasha chưa có bất cứ phim OVA nào, nhưng nó đã có 3 bộ phim "đặc biệt", đến nay nó đã được gộp vào thành các tập phim anime[22]. Các bộ phim "đặc biệt" là:

  • Spring Special: Naraku's True Identity Unveiled & A Wicked Smile; Kikyo's Wandering Soul, trình chiếu vào ngày 9 tháng 4 năm 2001.
  • Fall Special: The Woman Who Loved Sesshoumaru, trình chiếu vào ngày 24 tháng 11 năm 2003.
  • Spring Special: The Tragic Love Song of Destiny, trình chiếu vào ngày 12 tháng 4 năm 2004.

Gần đây, tạp chí Shonen Sunday thông báo là các chương manga từ tập 34 trở đi sẽ được chuyển thể thành anime, với sự tham gia của dàn diễn viên lồng tiếng của anime gốc. Anime sẽ được phát sóng lần đầu trên kênh YTV vào ngày 3 tháng 10 năm 2009.[16] Một tuần sau thông báo đó, hãng Viz Media cũng thông báo về việc mua bản quyền của anime này, với tựa đề anime là Inuyasha Kanketsu-hen (犬夜叉 完結編, Khuyển Dạ Xoa: Hoàn kết biên, tên tiếng Anh Inuyasha: The final act, có nghĩa là: Inu Yasha: Đoạn kết tròn vẹn?).[23].

Anime Inu Yasha ở các quốc gia khác

Ở Bắc Mỹ, công ty Viz MediaShoPro Entertainment đã đăng ký bản quyền phim. Việc lồng tiếng giao cho nhóm The Ocean Group. Phim lồng tiếng được chiếu trên Adult Swim của kênh phim hoạt hình Cartoon Network từ ngày 21 tháng 8 năm 2002 đến ngày 27 tháng 10 năm 2007, trùng vào khoảng thời gian bắt đầu của Season 3 Inu Yasha tại Nhật[20]. Tới ngày 19 tháng 5 năm 2008, bộ phim được chiếu xoay vòng, cứ 2 tập vào lúc 11 giờ ngày thứ 7 theo Múi giờ miền Đông (Bắc Mỹ).

Inu Yasha cũng được trình chiếu trên kênh hoạt hình anime Animax.

Việt Nam, phim này còn đang chiếu ở kênh hoạt hình Bi Bi, có trong dịch vụ truyền hình cáp SCTV, có trong dịch vụ truyền hình cáp SCTV và HTVC. Tên các nhân vật trong phim đều được đọc theo phiên âm Hán Việt[24].

Và cũng giống như manga Inu Yasha, anime Inu Yasha cũng được upload lên các trang web để phục vụ cho các độc giả không có điều kiện mua CD, DVD phim hoặc xem phát sóng. Tuy nhiên, chủ yếu vẫn là phim phụ đề tiếng Anh hoặc Tây Ban Nha.

Tham gia làm phim

Đạo diễn

Ikeda Mashashi (tập 1-44)Aoki Yasunao (tập 45-167)

Tác giả

Takahashi Rumiko

Thiết kế nhân vật

Hishinuma Yoshihito

Chỉ đạo nghệ thuật

Ikeda ShigemiOgami Yoichi

Chỉ đạo hình ảnh

Ito KumikoOgami Yoichi

Âm nhạc

Wada Kaoru

Nhà sản xuất

Tomioka Hideyuki (Sunrise)Suwa Michihiko (Yomiuri TV)

Phát hành

Kyoto AnimationSunriseYomiuri TV

Hình ảnh

Anime Film

Nhạc phim anime

Tất cả các bản nhạc dùng trong anime Inu Yasha đều được đăng ký bản quyền bởi công ty Avex Trax.

Các ca khúc mở đầu

Lời: Matsumoto Rie. Nhạc: Watanabe Miki. Sửa chữa: Ueno Keiichi.Thể hiện: nhóm V6.
  • I Am (Tôi là) (trong tập 35-64).
Lời: hitomi. Nhạc: Kitano Masato. Sửa chữa Watanabe Zentaro.Thể hiện: hitomi.
  • Owarinai Yume (Ước mơ vĩnh hằng) (trong tập 65-95).
Lời: Aikawa Nanase. Nhạc: Shibazaki Hiroshi. Sửa chữa: Kaname.Thể hiện: Aikawa Nanase.
  • Grip! (Hãy giữ lấy !) (trong tập 96-127).
Lời: Mochida Kaori. Nhạc: Kara Kazuhiro. Sửa chữa: HΛLThể hiện: nhóm Every Little Thing.
  • One Day, One Dream (Một ngày, một ước mơ) (trong tập 129-153).
Lời: Kohata Hideyuki. Nhạc: Yoshikawa Kei. Sửa chữa: Chokkaku.Thể hiện: nhóm Tackey & Tsubasa.
  • Angelus - ANJERASU (Thiên thần) (trong tập 153-167).
Lời: Bounceback. Nhạc: Bulge. Sửa chữa: Maejima Yasuaki.Thể hiện: Shimatani Hitomi.
  • Kimi ga Inai Mirai (Tương lai không có anh) (trong tập 1-26, mùa Final Act).
Lời: DAI. Nhạc: Katsumi Ohnishi. Sửa chữa: Kameda Seiji.Thể hiện: nhóm Do As Infinity.

Các ca khúc kết thúc

  • My Will (Ước vọng của tôi) (trong tập 1-20 và tập 166-167).
Lời: Matsumuro Mai. Nhạc: Ohtani Yasho. Sửa chữa: Kikuchi Keisuke. Sửa chữa điệp khúc: Kitajima Yas.Thể hiện: nhóm dream.
  • Fukai Mori (Rừng sâu) (trong tập 21-41).
Lời: DAI. Nhạc: DAI. Sửa chữa: DAIKameda Seiji.Thể hiện: nhóm Do As Infinity.
  • Dearest (Người dấu yêu) (trong tập 42-60).
Lời: Hamasaki Ayumi. Nhạc: CREADAI. Sửa chữa: Suzuki Naoto.Thể hiện: Hamasaki Ayumi.
  • Every Heart - Minna no Kimochi (Mỗi trái tim) (trong tập 61-85).
Lời: Watanabe Natsumi. Nhạc: Bounceback. Sửa chữa: H-wonder.Thể hiện: BoA.
  • Shinjitsu no Uta (Bài hát sự thật) (trong tập 86-108).
Lời: DAI. Nhạc: DAI. Sửa chữa DAIKameda Seiji.Thể hiện: nhóm Do As Infinity.
  • Itazura na Kiss (Nụ hôn tinh nghịch) (trong tập 109-127).
Lời: misono. Nhạc: Kitano Masato. Sửa chữa: Igarashi Mitsuru và nhóm day after tomorrow.Thể hiện: nhóm day after tomorrow.
  • Come (Tới đây) (trong tập 128-148).
Lời: Kask/Mansson/Cunnah. Nhạc: Kask/Mansson/CunnahLời tiếng Nhật: Mori Yuriko. Sửa chữa: Cobra Endo.Thể hiện: Amuro Namie.
  • Brand- New world (Một thế giới mới) (trong tập 149-165).
Lời: Mizue. Nhạc: Ōyagihirō. Sửa chữa: Iehara Masaki.Thể hiện: nhóm V6.
  • With You (Với bạn) (trong tập 1-9, mùa Final Act).
Lời: Leonn. Nhạc: Igarashi Mitsuru. Sửa chữa: - ast -.Thể hiện: nhóm AAA.
  • DIAMOND (Kim cương) (trong tập 10-17, mùa Final Act).
Lời: Fujibayashi Seiko. Nhạc: Kikuchi Kazuhito. Sửa chữa: - ast -Thể hiện: Alan.
  • Tooi Michi no Saki De (Con đường dài phía trước) (trong tập 18-26, mùa Final Act).
Lời: Takerawa Ai. Nhạc: Takerawa Ai. Sửa chữa: Sato Jun.Thể hiện: Takerawa Ai.

Các ca khúc trong phim điện ảnh

  • No More Words (Không nhiều từ) (ca khúc kết trong movie 1).
Lời: Hamasaki Ayumi. Nhạc: CREADo As Infinity. Sửa chữa: Suzuki Naoto và TasukuThể hiện: Hamasaki Ayumi.
  • Yura Yura (Tiến lên) (ca khúc kết trong movie 2).
Lời: Mochida Kaori. Nhạc: Tako Kuniko. Sửa chữa: Ohtani Yasuo, Nakao Masafumi và Ito Ichiro.Thể hiện: nhóm Every Little Thing.
  • Ai no Uta (Tình ca) (ca khúc trong movie 2).
Lời: Mochida Kaori. Nhạc: Tako Kunio. Sửa chữa: Murata Akira.Thể hiện: nhóm Every Little Thing.
  • Four Seasons (Bốn mùa) (ca khúc kết trong movie 3).
Lời: JUSME. Nhạc: MONK. Sửa chữa: MONK.Thể hiện: Amuro Namie
  • Rakuen (Thiên đàng) (ca khúc kết trong movie 4).
Lời: Van Tomiko. Nhạc: Do As Infinity. Sửa chữa: Do As InfinityKameda Seiji.Thể hiện: nhóm Do As Infinity.

Các bài nhạc được tuyển chọn và tập hợp trong một số album, ví dụ như Soundtracks CD: OST Volume 1, 2, 3, Toki o Koeru Omoi Soundtrack (Movie 1), Kagami no Naka Mugenjou Soundtrack (Movie 2), Tenka Hadou no Ken Soundtrack (Movie 3), Best of Inuyasha 1 và 2, Wind ~ Symphonic theme collection. Có thể mua ở các cửa hiệu DVD. Nhưng tình hình là hơi hiếm hoi ở Việt Nam. Thường các bài này hay được download từ Internet. Các đoạn nhạc phim cũng được tập hợp vào Inu Yasha Fan Disk cùng với những lời bình của hai diễn viên lồng tiếng Yamaguchi Kappei và Satsuki Yukino, phát hành vào ngày 29 tháng 3 năm 2006 [22]. Và vào năm 2001, một bộ phim ca nhạc Inu Yasha Theatre Production do Shinkansen Parcomics sản xuất đã ra mắt độc giả[22].

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: InuYasha http://www.animenewsnetwork.com/news/2001-07-07/vi... http://www.animenewsnetwork.com/news/2002-08-08/in... http://www.animenewsnetwork.com/news/2003-08-26/in... http://www.animenewsnetwork.com/news/2008-06-10/in... http://www.animenewsnetwork.com/news/2008-07-09/ne... http://www.animenewsnetwork.com/news/2009-07-16/in... http://www.animenewsnetwork.com/news/2009-07-24/vi... http://www.animenewsnetwork.com/press-release/2009... http://www.furinkan.com/iycompanion/ http://www.furinkan.com/iycompanion/anime/about.ht...